VĂN TƯỞNG NIỆM
Đức Vua – Phật Hoàng Trần Nhân Tông Nhập Niết Bàn Của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam
Nam Mô Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật,
Nam Mô Trúc Lâm Yên Tử Pháp phái lịch đại Tổ Sư tác đại chứng minh,
Kính bạch Đức Tổ Sư Điều Ngự Giác Hoàng!
Từ vùng đất địa linh nhân kiệt, làng Hải Ấp, Hải Triều – Kinh Bố, quê hương họ Trần dấy nghiệp. Đất Thăng Long kinh thành hoa lệ, hai triều Vua củng cố đế đô, đất nước thanh bình, dân chúng an cư lạc nghiệp, mưa thuận gió hòa, nhà nhà ngâm khúc âu ca, cả nước vui câu hữu đạo.
Rồi một thuở duyên lành xuất hiện, Hoàng thái hậu thụ thai, đấng Tu mi đáng bậc mày râu, vai Thiên tử từ đây kế nghiệp. Đức Thánh Tông định lập Đông cung, chọn người thừa kế ngai vàng. Thọ học với bao hàng thức giả, danh Sư – Tuệ Trung Thượng Sĩ thắm hương Thiền, Lê Phụ Trần, Nguyễn Thánh Huấn, Nguyễn Sĩ Cố dày công dạy dỗ.
Khi đến độ nhân duyên hội đủ, kế nghiệp phụ vương, lên ngôi Cửu ngũ, trị quốc an dân, lo bề giữ nước, đoàn kết một lòng, quy tụ người tài đức, nêu cao gương hỷ xả, bỏ qua lỗi cũ, đoàn kết toàn dân, tạo thành sức mạnh dân tộc. Hội nghị Bình Than, Diên Hồng một thuở, lấy ý chí toàn dân, làm ý chí của mình, chống giặc ngoại xâm, Nguyên Mông khiếp đảm, đẩy lùi quân giặc, hai cuộc xâm lăng, chiến thắng vạn quân, giữ yên bờ cõi. Quả thật:
“Xã tắc hai phen chồn ngựa đá
Non sông nghìn thuở vững âu vàng.”
Với tinh thần công thành thân thoái, Ngài đã lên ngôi Thái Thượng Hoàng, truyền ngôi cho Thái tử Anh Tông kế nghiệp. Thực hiện những bước vân du hóa đạo khắp nhân gian Đại Việt. Thành Đồ Bàn một thuở lưu danh, đất Chiêm Thành chào mừng Thánh Thượng. Huyền Trân Công Chúa, Chế Mân một thuở gieo duyên, liên kết hai dân tộc Việt – Chăm, ổn định hòa bình hữu nghị. Tổ lại đi khắp chốn thôn quê, thành thị, khuyên nhân dân thực hiện mười điều lành, xây dựng nhân gian Tịnh độ, Cực lạc tại trần gian bằng con người và tâm thanh tịnh. Tu tâm dưỡng tính, tin Phật tại Tâm, Tâm là Phật, ngộ Phật ngộ Tâm viên dung một thể. Quả thực:
“Cửa báu đầy kho thôi tìm kiếm
Đối cảnh vô tâm chớ hỏi Thiền“
Công đức hoằng dương Phật pháp của Tổ Sư sau khi ngộ đạo, Điều ngự Giác Hoàng, Vua Phật trần gian, trăm hoa đua nở, ngàn cỏ hương thơm, chín nước, mười mây vang rền tiếng Pháp. Chống gậy trúc dạo chơi thiên hạ, nâng gót hài đại địa vững bền. Quả thực: “Rừng thiền tùng trúc còn in bóng. Xào xạc canh thâu tiếng Pháp mầu”.
Rồi Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, Tổ khai sơn truyền thụ tâm tông, Pháp Loa, Huyền Quang Tôn giả, nối dõi tông phong, thiền giáo song hành, ba dòng thành một, Phái thiền Đại Việt ngàn đời, làm cho Tổ ấn rạng ngời, đèn Thiền tỏ rạng. Hương giới bay xa, chan hòa Pháp giới, non sông xán lạn, vũ trụ huy hoàng, nhật nguyệt hồi quang, Đạo vàng chói lọi. Phật giáo thời Trần muôn thuở, Tam giáo đồng nguyên, chan hòa tình dân tộc, nghĩa Pháp lữ đời đời, lương duyên hội tụ, cùng nhau chung sống hòa bình.
Từ Phái thiền Trúc Lâm Yên Tử, Phái thiền đặc sắc Việt Nam do Sơ Tổ Giác Hoàng khai sáng. Đã lập nên những di sản văn hóa muôn đời cho nhân thế, đó là các tác phẩm Trần Nhân Tông thi tập, Đại Hương Hải Ấn thi tập, Tăng già Toái Sự, Thạch Thất Mị Ngữ, Trung Hưng Thực Lực v.v… Quả thực: “Hương thiền gió lộng tỏa ngàn phương, Trăng sáng năm xưa ngập dặm đường. Hoa lòng đã nở từ độ ấy, Nương Pháp âm về tận cố hương”.
Trên tinh thần sắc tướng vốn không, mượn cảnh huyễn, độ người như huyễn, tử sinh nào có, nương thuyền từ độ kẻ trong mê, như Tổ Sư đã dạy: “Tất cả Pháp không sinh. Tất cả Pháp không diệt. Ai hiểu được nghĩa này. Thì Chư Phật hiện tiền. Nào có đến có đi”. Do đó, dù thời gian có đi qua 714 năm, không gian có biến dịch, song công đức, đạo nghiệp của Tổ Sư vẫn còn sống mãi trong trang sử vàng son của dân tộc, của Phật giáo Việt Nam trong sự nghiệp hộ quốc an dân, đoàn kết hòa hợp dân tộc, phát huy Đạo pháp trong thời đại ngày nay và mãi mãi về sau.
Nhất là đối với Giáo hội Phật giáo Việt Nam, là kế thừa của Giáo hội Trúc Lâm, kế thừa tinh hoa của Giáo lý Phật Đà trải qua hai ngàn năm lịch sử với truyền thống đồng hành cùng dân tộc, sống tốt đạo đẹp đời. Tăng Ni, Phật tử cả nước nguyện đồng lòng tiếp tục sự nghiệp quang huy của Điều Ngự Tổ Sư, của hồn thiêng sông núi Đại Việt và tinh thần đoàn kết hòa hợp đa tôn giáo, xây dựng một Tịnh độ tại nhân gian bằng tinh thần Phật giáo Việt Nam, con người Việt Nam và dân tộc Việt Nam. Quả thật:
“Vạn kiếp uy nghi ngôi Tháp Tổ
Khói vẽ nên hình chốn nhân gian.”
Hôm nay, nhân lễ kỷ niệm 714 năm ngày Đức vua – Phật hoàng Trần Nhân Tông nhập Niết bàn, toàn thể Tăng Ni, Phật tử Việt Nam ở trong nước và ở nước ngoài, nhân dân Việt Nam, con cháu Tiên Rồng xin đốt nén tâm hương, ngũ phần đỉnh lễ dâng lời tưởng niệm chân thành, tâm cảm ý giao, một lòng thành kính cúi đầu đỉnh lễ Lịch đại Tổ Sư, phát nguyện phụng trì Phật pháp, phát huy chân lý Đạo nhà, giữ gìn Tổ ấn vàng son, làm rạng rỡ vang danh Non thiêng Phật Tổ huy hoàng tráng lệ, non sông gấm vóc thiên thành, một cõi vững bền muôn thuở. Đồng thành kính nguyện thực hành: Giữ gìn tinh thần đoàn kết hòa hợp dân tộc, độc lập Tổ quốc; nêu cao tinh thần phóng khoáng, bao dung trong cộng đồng dân tộc và xã hội, đoàn kết các tôn giáo, để cùng tồn tại và phát triển, thực hiện hữu hiệu phương châm “Tốt Đời đẹp Đạo”, duy trì truyền thống dân tộc, tự lực, tự cường, phát huy nội lực, đồng nhờ ngoại lực để phát huy Đạo pháp và đất nước phồn vinh, văn minh tiến bộ; tạo dựng một thiên đường, cực lạc tại nhân gian trong lòng người, bằng triết lý Thiền là sống với tâm từ bi chan chứa mọi loài, trong kiếp hiện tại và mai sau của trần thế, thực hành Bồ tát đạo. Quả thực:
“Mãi mãi sáng ngời gương Phật Tổ
Ngàn sau còn chiếu rạng nét Tông phong.”
Kính mong liệt vị Tổ Sư, hồn thiêng sông núi, thùy từ chứng giám.
Nam Mô Chứng Minh Sư Bồ tát Ma ha Tát tác đại chứng minh!